Ghép gan từ người hiến sống là gì? Các công bố khoa học về Ghép gan từ người hiến sống

Ghép gan từ người hiến sống là phương pháp điều trị y khoa, trong đó một gan được lấy từ một người hiến cơ quan sau khi họ đã qua đời. Gan này sau đó được ghép ...

Ghép gan từ người hiến sống là phương pháp điều trị y khoa, trong đó một gan được lấy từ một người hiến cơ quan sau khi họ đã qua đời. Gan này sau đó được ghép vào cơ thể của một người khác để thay thế gan bị tổn thương hơn hoặc không hoạt động. Quá trình này góp phần cải thiện chức năng gan, giúp bệnh nhân có cơ hội sống và tái lập lại cuộc sống bình thường.
Ghép gan từ người hiến sống là một phẫu thuật phức tạp và đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhóm bác sĩ, nhân viên y tế và cơ quan quản lý. Quá trình ghép gan thông thường bao gồm các bước sau:

1. Xác định bệnh nhân phù hợp: Bệnh nhân cần phải được đánh giá kỹ lưỡng để đảm bảo an toàn và thành công cho quá trình ghép gan. Những yếu tố được xem xét bao gồm tình trạng sức khỏe tổng thể, tuổi, mức độ tổn thương gan và danh sách chờ ghép.

2. Tìm người hiến sẵn sàng: Nhóm chuyên gia sẽ tìm kiếm và lựa chọn người hiến gan sẵn sàng trong hệ thống quản lý các trường hợp hiến tặng cơ quan. Người hiến có thể là người đã khai tử hoặc người sống có ý định hiến gan.

3. Quá trình lấy gan: Khi người hiến đã được xác định, phẫu thuật lấy gan sẽ được tiến hành. Người hiến sẽ được tiếp cận với quy trình lấy gan sẽ không gây đau đớn hay ảnh hưởng xấu đến thân thể sau khi chết.

4. Giao tiếp và vận chuyển gan: Sau khi gan đã được lấy từ người hiến, nó được vận chuyển nhanh chóng đến bệnh viện hoặc trung tâm ghép gan, thông qua hệ thống vận chuyển nhanh chóng và hiệu quả như máy bay hoặc xe hơi chuyển tiếp gan cấp cứu.

5. Quá trình ghép gan: Bệnh nhân sẽ được chuẩn bị cho quá trình ghép gan. Quá trình này bao gồm phẫu thuật tiến hành ghép gan thông qua việc tiếp tục gắn kết mạch máu và các ống mật.

6. Theo dõi và điều trị hậu quả: Sau khi quá trình ghép gan hoàn tất, bệnh nhân sẽ được theo dõi và điều trị tích cực để đảm bảo gan được hòa hợp tốt và hạn chế sự trùng hợp cơ thể. Điều này bao gồm việc sử dụng thuốc kháng viêm và chống nh Reject rejection” để giảm nguy cơ bệnh nhân từ chối gan mới. Bệnh nhân cũng sẽ tham gia chương trình chăm sóc sau quá trình ghép gan để đảm bảo gan mới hoạt động tốt và duy trì sự khỏe mạnh của cơ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ghép gan từ người hiến sống":

ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT VÀ VÀ KẾT QUẢ TÁI TẠO LƯU THÔNG ĐỘNG MẠCH GAN TRONG PHẪU THUẬT GHÉP GAN PHẢI TỪ NGƯỜI HIẾN SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm kỹ thuật và kết quả tái tạo lưu thông động mạch gan của mảnh ghép gan phải từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu trên 52 trường hợp được ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020. Kết quả: 100% các trường hợp được khâu nối tận tận theo giải phẫu giữa động mạch gan của người nhận và người hiến sử dụng mối khâu vắt kiểu thả dù và dùng kính lúp phẫu thuật có độ phóng đại 3,5 lần và chỉ Prolen 8/0. Có 2/52 trường hợp bóc tách nội mạch động mạch gan phải mức độ nhẹ phải cắt đoạn qua phần bóc tách đến phần lành (3,8%) và 2/52 trường hợp sử dụng động mạch gan khác (3,8%). Trong mổ có 2 động mạch gan bị hẹp phải làm lại miệng nối từ 1-2 lần. Thời gian theo dõi trung bình của 52 bệnh nhân là 29 tháng. Có 1/52 trường hợp bị hẹp động mạch gan do bóc tách nội mạc (1,9%), được điều trị nội khoa bảo tồn thành công. Kết luận: Cần đánh giá tình trạng tổn thương bóc tách nội mạc động mạch gan trước ghép để có phương án tái tạo lưu thông phù hợp nhất. Sử dụng kỹ thuật khâu vắt kiểu thả dù và kính lúp phẫu thuật độ phóng đại 3,5 lần là phương pháp hiệu quả và an toàn trong tái tạo lưu thông động mạch gan.
#ghép gan từ người hiến sống #tái tạo lưu thông động mạch gan
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỬ DỤNG ĐOẠN TM BẢO QUẢN ĐỂ TẠO HÌNH LÀM DÀI TĨNH MẠCH THẬN TRONG GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI HIẾN SỐNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm kỹ thuật ghép thận từ người hiến sống sử dụng đoạn tĩnh mạch bảo quản và đánh giá kết quả sớm sau ghép của những bệnh nhân trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu 14 bệnh nhân ghép thận có tĩnh mạch thận phải ngắn có sử dụng đoạn tĩnh mạch bảo quản từ ngân hàng mô để tạo hình làm dài tĩnh mạch thận ghép tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 3/2019 đến 06/2020. Kết quả: 14 bệnh nhân trong nghiên cứu, có 11 bệnh nhân sử dụng tĩnh mạch chậu, 3 bệnh nhân sử dụng tĩnh mạch sinh dục. Thời gian bảo quản mạch trung vị là 66.5 (Inter quartile range – IQR: 86) ngày. Có 13/14  tĩnh mạch bảo quản đầy đủ các lớp áo, không viêm xơ. Chiều dài đoạn mạch được làm dài thêm là 21.6 ± 6.8 mm. Thời gian thiếu máu lạnh trung bình 66.6 ± 14.5 phút, thời gian tạo hình tĩnh mạch 13 ± 1.8 phút, thời gian thiếu máu ấm 32.6 ± 6.2 phút. Chức năng thận sau ghép về bình thường 100% các trường hợp, không có biến chứng mạch máu sau ghép giai đoạn hậu phẫu và cho tới thời điểm hiện tại. Thời gian nằm viện trung bình 15 ± 1.03 ngày. Thời gian theo dõi trung vị là 22.5 tháng. Kết luận: Sử dụng đoạn mạch bảo quản đồng loại trong tạo hình mạch thận ngắn trong ghép thận là kỹ thuật dễ thực hiện, an toàn và hiệu quả.
#tĩnh mạch bảo quản #ghép thận #tĩnh mạch thận ngắn #tạo hình tĩnh mạch thận ghép
Đánh giá kết quả sớm lấy mảnh ghép gan phải từ người hiến sống trong ghép gan
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm cắt gan phải ở người hiến gan trong ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 127 ca hiến gan đã được phẫu thuật cắt gan phải, từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 6 năm 2022, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Tuổi trung bình: 31,4 ± 7,1 tuổi, 80,3% người hiến gan là nam giới. Thể tích gan trái còn lại: 37,86 ± 4,28%, cắt gan phải kèm theo tĩnh mạch gan giữa chiếm đa số với 56,7%, trọng lượng mảnh ghép: 660,7 ± 107,9g, thời gian phẫu thuật: 281,3 ± 50,0 phút, lượng máu mất trung bình: 313,7 ± 169,2ml. Không có trường hợp hiến gan nào tử vong và tỷ lệ biến chứng chung là 7,9%. Hầu hết các biến chứng của những người hiến là độ II (2,4%) hoặc độ III (3,9%) và biến chứng đường mật là phổ biến nhất, với tỷ lệ 4,7%. Tỷ lệ thể tích gan trái tăng thêm sau 07 ngày: 64,68 ± 23,1%, thời gian nằm viện trung bình là: 11,2 ± 3,0 ngày. Kết luận: Với việc lựa chọn người hiến gan cẩn thận, cắt gan phải ở người hiến gan trong ghép gan từ người hiến sống cho kết quả tốt với tỷ lệ biến chứng thấp.
#Cắt gan phải ở người hiến gan #ghép gan từ người hiến sống
Clinical, subclinical characteristics and risk factors of the new-onset diabetes after transplantation (NODAT) in living donor liver transplantation
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các yếu tố nguy cơ đái tháo đường khởi phát sau ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu 122 người (không mắc đái tháo đường trước ghép) được ghép gan từ người hiến sống từ tháng 10/2017 đến tháng 06/2023, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Tỉ lệ mắc NODAT là 22,9% với thời gian theo dõi trung bình là 19,1 tháng. 89,2% số bệnh nhân NODAT được chẩn đoán ở thời điểm trong năm đầu sau ghép. Các bệnh nhân NODAT có tuổi trung bình: 53,96 ± 10,22 tuổi, 89,2% là nam giới, BMI > 25 kg/m2 chiếm 32,2%. HbA1c trung bình: 6,52 ± 0,78%. Các yếu tố: Giới tính người nhận, tình trạng béo phì, tiền sử đái tháo đường của gia đình, tình trạng nhiễm virus viêm gan B, C, CMV, số kiểu gen HLA khác nhau giữa người hiến - người nhận không là yếu tố nguy cơ với NODAT. Việc điều trị bằng lọc máu, thay huyết tương hay Pulse steroid cũng không là yếu tố nguy cơ với NODAT. Tuổi cao (trên 70 tuổi) đối với bệnh nhân nhận gan, thời gian nằm ICU kéo dài (> 15 ngày) làm tăng nguy cơ mắc NODAT. Kết luận: Sau ghép gan 6 tháng, gần 1/4 số bệnh nhân có NODAT. Nguy cơ mắc NODAT cao ở người trên 70 tuổi, phải nằm ICU kéo dài. Cần có nhiều nghiên cứu để đánh giá các tác động của NODAT cũng như việc điều trị NODAT ở nhóm bệnh nhân này. Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các yếu tố nguy cơ đái tháo đường khởi phát sau ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu 122 người (không mắc đái tháo đường trước ghép) được ghép gan từ người hiến sống từ tháng 10/2017 đến tháng 06/2023, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Tỉ lệ mắc NODAT là 22,9% với thời gian theo dõi trung bình là 19,1 tháng. 89,2% số bệnh nhân NODAT được chẩn đoán ở thời điểm trong năm đầu sau ghép. Các bệnh nhân NODAT có tuổi trung bình: 53,96 ± 10,22 tuổi, 89,2% là nam giới, BMI > 25 kg/m2 chiếm 32,2%. HbA1c trung bình: 6,52 ± 0,78%. Các yếu tố: Giới tính người nhận, tình trạng béo phì, tiền sử đái tháo đường của gia đình, tình trạng nhiễm virus viêm gan B, C, CMV, số kiểu gen HLA khác nhau giữa người hiến - người nhận không là yếu tố nguy cơ với NODAT. Việc điều trị bằng lọc máu, thay huyết tương hay Pulse steroid cũng không là yếu tố nguy cơ với NODAT. Tuổi cao (trên 70 tuổi) đối với bệnh nhân nhận gan, thời gian nằm ICU kéo dài (> 15 ngày) làm tăng nguy cơ mắc NODAT. Kết luận: Sau ghép gan 6 tháng, gần 1/4 số bệnh nhân có NODAT. Nguy cơ mắc NODAT cao ở người trên 70 tuổi, phải nằm ICU kéo dài. Cần có nhiều nghiên cứu để đánh giá các tác động của NODAT cũng như việc điều trị NODAT ở nhóm bệnh nhân này.
#Đái tháo đường khởi phát sau ghép tạng #ghép gan từ người hiến sống
Tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ nhiễm cytomegalovirus trên bệnh nhân sau ghép gan từ người hiến sống
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ nhiễm cytomegalovirus (CMV) sau ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 151 trường hợp được ghép gan từ người hiến sống, từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 01 năm 2023, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Trung vị tuổi: 55 (19-75), 85,4% là nam giới, trung vị BMI: 23,12 (16,38-40,3), trung vị điểm MELD: 21 (6-44); CMV IgG dương tính ở 100% người nhận gan và 98% người hiến gan. 8 trong số 151 trường hợp bị nhiễm CMV sau ghép gan (5,29%), phân tích hồi quy đơn biến theo mô hình Cox cho kết quả thời gian nằm ICU sau ghép gan kéo dài làm tăng nguy cơ nhiễm CMV sau ghép. Kết luận: Nhiễm CMV là nhiễm khuẩn cơ hội phổ biến nhất ở bệnh nhân ghép gan. Vì vậy, cần chẩn đoán sớm và điều trị tích cực, đúng phác đồ để làm giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong sau ghép gan.
#Nhiễm CMV #ghép gan #yếu tố nguy cơ
42. Sử dụng đoạn mạch máu tự thân của người hiến tạo hình tĩnh mạch cửa trong ghép gan ở trẻ em: Báo cáo hai trường hợp
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 178 Số 5 - Trang 363-369 - 2024
Ghép gan cho trẻ em là phương pháp điều trị cuối cùng có hiệu quả cho trẻ em xơ gan, bệnh gan giai đoạn cuối, u gan và một số bệnh lý chuyển hóa. Đặc điểm tĩnh mạch cửa ở trẻ em xơ gan thường nhỏ và xơ cứng do hậu quả của tăng áp lực tĩnh mạch cửa kéo dài, lưu lượng máu qua tĩnh mạch cửa thấp hoặc những can thiệp phẫu thuật trước đó. Chúng tôi báo cáo hồi cứu hai trường hợp người bệnh 16 tháng và người bệnh 43 tháng với chẩn đoán: Xơ gan, bệnh gan giai đoạn cuối/ Teo mật đã phẫu thuật Kasai có hẹp tĩnh mạch cửa được phẫu thuật ghép gan sử dụng mảnh ghép gan trái từ người cho sống và thay thế tĩnh mạch cửa bằng đoạn tĩnh mạch chậu ngoài của người hiến. Kết quả sau mổ: cả 2 người bệnh diễn biến ổn định, tốc độ dòng chảy qua tĩnh mạch cửa bình thường, không phát hiện hẹp, tắc hay huyết khối. Theo dõi xa 01 người bệnh tháng thứ 52 và 01 người bệnh tháng thứ 7, lâm sàng ổn định, siêu âm doppler tĩnh mạch cửa dòng chảy trong giới hạn bình thường, không huyết khối. Đồng thời tìm hiểu y văn về chỉ định, mô tả đặc điểm kỹ thuật và kết quả thay thế tĩnh mạch cửa trong ghép gan từ người cho sống cho trẻ em. Việc thay thế tĩnh mạch cửa ở trẻ em có hẹp tĩnh mạch cửa bằng đoạn mạch tự thân của người hiến có thể thực hiện an toàn với kết quả ban đầu tốt.
#Ghép gan trẻ em #tạo hình tĩnh mạch cửa #ghép gan từ người hiến sống
A preliminary result of living donor liver transplantation using right lobe graft at 108 Military Central Hospital
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phẫu thuật ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu loạt trường hợp được ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải, từ tháng 10/2017 đến tháng 1/2021, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: 60 bệnh nhân được ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải. Độ tuổi trung bình là: 48,87 ± 13,49 tuổi (13 - 72 tuổi). Tỷ lệ nam/ nữ là 9/1. Trong nhóm nghiên cứu có 27 bệnh nhân ung thư gan, 18 bệnh nhân xơ gan mất bù và 15 bệnh nhân suy gan cấp với điểm MELD trung bình là: 29,4 ± 8,5 (15 - 40). 100% các trường hợp ghép sử dụng mảnh ghép gan phải. 15 trường hợp được thực hiện với kĩ thuật tạo hình tĩnh mạch trên gan giữa sử dụng đoạn mạch nhân tạo và 45 trường hợp thực hiện với kĩ thuật lấy mảnh ghép gan phải mở rộng kèm theo tĩnh mạch gan giữa. Biến chứng liên quan đến mạch máu là 8,3% bao gồm: Huyết khối động mạch, hẹp động mạch gan và hẹp tĩnh mạch cửa. 7 trường hợp hẹp đường mật, đã được can thiệp đặt stent đường mật qua nội soi mật tuỵ ngược dòng thành công. Thời gian sống thêm 1 năm sau ghép là 86,7%. Kết luận: Phẫu thuật ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải đạt kết quả tốt.
#Ghép gan từ người hiến sống #cắt gan
Biến chứng đường mật sau lấy mảnh ghép gan phải trong ghép gan từ người hiến sống
Mục tiêu: Đánh giá biến chứng đường mật sau lấy mảnh ghép gan phải trong ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 148 trường hợp hiến gan đã được phẫu thuật lấy mảnh ghép gan phải, từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 10 năm 2022, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Giải phẫu đường mật cho thấy: Týp I gặp chủ yếu với 126 (85,14%) trường hợp; týp II: 8 (5,41%) trường hợp; týp III: 11 (7,44%) trường hợp và týp IV: 3 (2,03%) trường hợp. 7 (4,73%) trường hợp bị biến chứng đường mật và đều thuộc týp I; trong đó, 5 (3,38%) trường hợp rò mật, tất cả đều được đặt dẫn lưu ổ bụng, 4 trường hợp thành công, 1 trường hợp dẫn lưu không hiệu quả gây viêm phúc mạc khu trú, phải mổ lại; 2 (1,35%) trường hợp hẹp đường mật được can thiệp đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng thành công. Phân loại biến chứng theo Clavien-Dindo, độ IIIa gặp 6 (4,05%) trường hợp, độ IIIb gặp 1 (0,68%) trường hợp. Không có trường hợp nào tử vong ở người hiến gan. Kết luận: Biến chứng đường mật thường gặp nhất sau lấy mảnh ghép gan phải trong ghéo gan từ người hiến sống và đều được điều trị thành công bằng phương pháp dẫn lưu hoặc nội soi mật tụy ngược dòng.
#Cắt gan phải ở người hiến gan #ghép gan từ người hiến sống #biến chứng đường mật.
ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT TẠO HÌNH TĨNH MẠCH GAN TRONG GHÉP GAN PHẢI TỪ NGƯỜI HIẾN SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm kỹ thuật và kết quả tái tạo lưu thông tĩnh mạch gan của mảnh ghép gan phải từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 52 trường hợp được ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020. Kết quả: Có 42 trường hợp sử dụng mảnh ghép gan phải mở rộng gồm cả tĩnh mạch gan giữa (80,7%) và 10 trường hợp sử dụng mảnh ghép gan phải cải tiến có tĩnh mạch gan giữa được tái tạo lưu thông từ các nhánh V5 và/ hoặc V8 (19,3%). 100% các trường hợp tái tạo lưu thông tĩnh mạch gan sử dụng đoạn mạch nhân tạo polytetrafluoroethylene. 100% các trường hợp đều được nối tĩnh mạch gan giữa và tĩnh mạch gan phải thành miệng nối chung duy nhất và đều được mở rộng sang bên trái và xuống dưới tại lỗ của tĩnh mạch gan phải người nhận với chiều dài đường rạch trung bình lần lượt là 14 mm và 9,7 mm. Có 15/52 trường hợp có tĩnh mạch gan phải phụ có đường kính trên 5 mm được nối thẳng trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới kiểu tận – bên (28,8%). Có 3/52 trường hợp biến chứng tĩnh mạch gan giữa (2 hẹp, 1 tắc) (5,7%). Tỷ lệ tử vong do biến chứng tĩnh mạch gan là 1,9%. Kết luận: Tái tạo lưu thông tĩnh mạch gan phải và giữa thành một miệng nối duy nhất trong ghép gan từ người hiến sống sử dụng mảnh ghép gan phải là một phương pháp đơn giản và an toàn. Hơn nữa, kỹ thuật này giúp giảm tỷ lệ hẹp tắc tĩnh mạch gan sau ghép.
#ghép gan từ người hiến sống #tái tạo lưu thông tĩnh mạch gan
Evaluation of right hepatic vascular and biliary anatomical variations in 150 cases of right liver graft
Mục tiêu: Đánh giá các biến thể giải phẫu trên mảnh ghép gan phải trong ghép gan từ người hiến sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 150 trường hợp được phẫu thuật lấy mảnh ghép gan phải trong ghép gan từ người hiến sống, từ tháng 10 năm 2017 đến 12 năm 2022, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Tĩnh mạch cửa: Giải phẫu bình thường (Varotti type 1) được ghi nhận ở 94,7% trường hợp. Động mạch gan: Một miệng nối động mạch đơn độc được xác định ở 148 (98,7%) người hiến. Đường mật: Giải phẫu bình thường được ghi nhận trên 84,5% người hiến; 4,5% trường hợp có 3 đường mật cùng đổ vào ống gan chung; 2,7% đường mật phân thuỳ trước và 5,3% đường mật phân thuỳ sau đổ vào đường mật gan trái; 0,7% đường mật phân thuỳ trước và 1,3% đường mật phân thuỳ sau đổ trực tiếp vào ống gan chung. Tĩnh mạch gan: 40,3% có tĩnh mạch gan phải phụ được bảo tồn trong mảnh ghép (> 5mm). 54% mảnh ghép gan lấy tĩnh mạch gan giữa. Kết luận: Các biến thể giải phẫu đường mật và mạch máu thường gặp trên mảnh ghép gan phải, và có thể được lấy và ghép an toàn khi được khảo sát và lập kế hoạch chính xác trước và trong phẫu thuật.
#Ghép gan từ người hiến sống #biến thể giải phẫu
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2